Pages

Được tạo bởi Blogger.

Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2011

BÍ QUYẾT: ĂN UỐNG ĐỂ TRẺ VÀ KHỎE LÂU DÀI


Rút ra từ cuộc sống và trải nghiệm:vitamin cho bé biếng ăn | vitamin tăng sức đề kháng cho bé | cách bổ sung vitamin cho trẻ | viên uống bổ sung vitamin cho trẻ 

vitamin cho bé


Bí quyết thứ nhất, quan trọng nhất, đó là ĂN VỪA ĐỦ. Những người ham hố ăn uống rất chóng già, vì thức ăn đưa vào làm cho cơ thể phải tiêu hao rất nhiều năng lượng để tiêu hóa. Khi vừa đủ, thì cân bằng, khi nhiều thì tích lại thành u, tạo viêm và tạo mỡ thừa trong các thành mạch (gây xơ, vữa, tăng mỡ máu v.v...)
Mỗi người có một “cái cân” riêng, vì vậy vừa đủ nghĩa là “ngay khi cảm thấy lưng lửng” – 75% đến 80% dạ dầy. Nên đứng dậy rời khỏi mâm cơm, dù vẫn còn thèm ăn.

Bí quyết thứ hai, ĂN CHAY. Rau, củ, đậu, đỗ, ngô, khoai, sắn, rong tảo, hoa quả ... vốn là những thức ăn đơn giản, dễ tiêu hóa & ít tốn năng lượng để tiêu hóa, mang ít chất độc hại hơn thực phẩm gốc động vật (đặc biệt là các chất độc sinh ra trong quá trình chăn nuôi, giết mổ, chế biến ...). Những thức ăn này giàu chất xơ nên giúp cơ thể thải độc vô cùng hiệu quả.

Bí quyết thứ ba, sử dụng NGŨ CỐC NGUYÊN CÁM, và càng nguyên hạt càng tốt. Ngũ cốc nguyên cám chứa nhiều vitamine và chất khoáng, rất tốt cho sự hấp thụ cân bằng của cơ thế. Chúng còn chứa nhiều chất xơ, giúp hệ tiêu hóa làm việc trơn tru và giúp thải loại mỡ thừa bám ở thành mạch cũng như các chất độc trong máu ra ngoài. 

Bí quyết thứ tư: giảm thiểu tiến đến LOẠI BỎ các loại ĐƯỜNG, mật ong... ra khỏi thực đơn. Các chất ngọt này trở thành acid trong cơ thể, và chính là một trong các nguyên nhân hàng đầu dẫn đến nhăn da và già sớm, vì acid thích lũy trong cơ thể gây ra quá trình oxy hóa dòng máu, dẫn đến lão hóa nhanh chóng (lão hóa là một tiến trình oxy hóa).

Bí quyết thứ năm, uống đủ nước, vận động đủ & thích hợp, ngoài trời. Mỗi khi bạn ra được mồ hôi là trái thận của bạn cảm ơn bạn vô cùng, vì nó đỡ phải làm việc nhiều. Ánh sáng mặt trời là vô cùng cần thiết cho chuyển hóa của cơ thể, vì vậy nên tận dụng ánh sáng mặt trời khi có thể.

Chúc tất cả một cuộc sống khỏe mạnh, trẻ trung và luôn bình yên trong tâm hồn.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Thứ Ba, 17 tháng 5, 2011

BÍ QUYẾT GIỮ DINH DƯỠNG : RAU CỦ HẤP

Rau củ hấp (bằng xửng hoặc bằng cái chõ inox) thường có vị ngọt đậm hơn nhiều so với rau củ luộc hay xào, đồng thời vẫn giữ được độ giòn và màu sắc như khi còn tươi. Rau củ hấp cũng giữ được vitamin nhiều hơn luộc, xào. Món này “đi” với các món nặng như rán, kho rất là hợp.

Cách làm cực kỳ đơn giản, rau củ xắt vừa ăn (có thể phối hợp nhiều loại với nhiều màu sắc cho vui mắt, và ngon miệng. Lưu ý các loại rau khác nhau có thể có thời gian chín khác nhau, sau 1 thời gian nấu nướng thì sẽ quen), cho vào xửng. Nước có thể đun sôi sẵn, sau đó cho xửng vào hấp. Rau dễ chín cho lên trên, rau lâu chín cho xuống dưới.

Thời gian chín thông thường là:

-        rau lá (rau cải thảo, cải bắp, cải bẹ): chừng 5-7 phút (sau khi nước sôi)
-        hoa lơ, hoa lơ xanh: 7-10 phút
-        củ cải, cà rốt: 10-12 phút

nếu muốn phối hợp các loại rau trên cùng nhau thì nên để cà rốt củ cải xuống đáy xửng, tiếp đến là hoa lơ và sau cùng là rau lá. Thời gian hấp chừng 10 phút là vừa. Lưu ý không nên “xếp” rau quá nhiều và quá kín vì làm như vậy sẽ không có chỗ trống cho hơi nước vào làm chín món ăn.

Các loại rau củ hấp có thể chấm tương hoặc chấm nước mắm hay nước của món kho. Nước hấp có thể dùng để nấu soup hoặc để uống sau khi ăn cơm (không nên chan canh khi ăn cơm).

Với một người mạnh khoẻ, bữa ăn quân bình khi lượng cơm lứt chiếm ít nhất 50%-60%, rau củ 25-30%, canh (soup) 5 %, đậu đỗ và các sản phẩm của nó (đậu phụ, tempeh, natto ...) 10-15%, ngoài ra có thể thêm 5% rong biển. Thi thoảng có thể ăn hoa quả đúng mùa, ăn cả vỏ (nếu còn ăn thịt).

Nam Mô A Di Đà Phật.

Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2011

DINH DƯỠNG TỪ RONG BIỂN

Trong các phương pháp dưỡng sinh của nhiều dân tộc trên thế giới, rong biển được coi là thức ăn mang lại sự bền bỉ, dẻo dai cho tinh thần và thể xác con người.

Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng các loại hải thảo - rong rêu ở biển để làm thức ăn. Ngày nay, trong một số thức ăn hay thực phẩm chức năng được khuyến cáo cho những người béo phì, cho bệnh nhân tiểu đường và một số bệnh nhân mắc ung thư... cũng có sự hiện diện của rong biển.

Hiện nay con người đã biết được rât nhiều loài rong biển có thể ăn và sử dụng làm thuốc.Trong một chế độ ăn chay, không sử dụng thức ăn động vật, thì rong biển đóng vai trò bổ xung chất khoáng, vitamine vô cùng quan trọng.

Tại sao ? 

Rong biển thanh lọc cơ thể chúng ta bằng cách làm kiềm hóa cơ thể (vốn dư acid do hậu quả của việc sử dụng thức ăn không đúng cách, quá nhiều thực phẩm gốc động vật, đường và sữa). Rong biển còn giúp làm tan chất mỡ và các chất nhầy lắng đọng trong cơ thể.

Carbon hydrad (chất bột đường)

Trong rong biển có chứa từ 30 đến 40% carbon hydrat, trong đó có khá nhiều loại đường. Theo nghiên cứu dược lý, các loại đường này có tác dụng phòng bệnh máu trắng, bệnh đau nhức xương, cầm máu động mạch vành. Carbon hydrat trong rong biển còn ngăn chặn cơ thể hấp thụ các chất phóng xạ đi vào đường ruột, làm giảm mỡ máu, hạ huyết áp, có tác dụng nhất định trong việc chữa bệnh thận, sưng phổi và bệnh quáng gà. 

Các chất khoáng
 
Rong biển có một số thành phần rất đặc biệt bảo vệ sức khỏe, nhất là các loại muối mà nhiều loại rau trồng không có được. Các chất khoáng như kali, muối natri, iod, canxi và sắt trong rong biển có thể phòng ngừa các bệnh sưng phù tuyến giáp trạng, đau xương cốt, loãng xương, thiếu sắt, thiếu máu. Nếu thường xuyên ăn rong biển có thể điều tiết được lượng acid và kiềm trong máu.

Các vitamin
 
Thành phần rong biển chứa khá nhiều vitamin B1, B2, PP và một lượng nhất định vitamin B6, B12, E, C, các acid béo không no, caroten... trong đó vitamin B12 là vitamin không hề có trong các loại rau trồng. Người Nhật Bản rất ưa dùng rong biển. Một số chuyên gia sức khỏe Nhật Bản cho rằng, sở dĩ người dân ở nước này có tuổi thọ cao, sống khỏe mạnh vì có liên quan tới chế độ sử dụng rong biển. 

Theo tổng kết của các chuyên gia y học Nhật Bản, rong biển có tác dụng phòng chống bệnh ung thư, hạ huyết áp, phòng xơ cứng động mạch vành, ngăn ngừa máu đông tụ, kích thích sự bài tiết, duy trì sự cân bằng giữa acid và kiềm trong máu, giảm béo, tăng cường gân cốt và bổ máu.

Do quá trình quang hợp, rong biển đã chuyển hóa được các chất vô cơ trong đại dương thành các chất hữu cơ mà các loại rau trồng trên mặt đất không thể có được. Đi sâu vào những công trình nghiên cứu khoa học, các nhà dinh dưỡng trên thế giới dự đoán rằng; Rong biển chắc chắn sẽ trở thành thực phẩm bảo vệ sức khỏe cho con người trong thế kỷ XXI này.

Các loại rong biển phổ biến hay dùng

- Rong Nori : là loại rong đã được ép thành miếng, có thể đã được nướng sơ qua, thường sử dụng trong món ăn Sushi 
- Rong kanten (agar): là loại rong không mùi vị, hay dùng trong món thạch
- Rau câu: hay được sử dụng để nấu chè
- Rong phổ tai: là loại rong dầy, nằm sâu dưới đáy biển, vô cùng quí giá, giàu dưỡng chất. Có thể dùng nấu canh, soup, muối cùng dưa cải v.v
- Rong hiziki (tóc tiên) : giàu canxi nhất trong các loại rong, rất ngon khi dùng trong salad, xào ...

Nam Mô A Di Đà Phật.

Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2011

ĐỒ ĂN SỐNG - THỨC ĂN THỰC DƯỠNG CHO MÙA HÈ



Ngày nay thức ăn sống chưa qua tinh chế rất phổ biến. Ở Los Angeles và San Francisco, những người béo đang có xu hướng ăn những loại thức ăn này. Rất nhiều người hiểu sai rằng thức ăn chưa qua tinh chế không thuộc loại thức ăn thực dưỡng. Thực tế thì khác xa như vậy. Có rất nhiều loại thức ăn như vậy trên thực đơn như là salad trộn, giá, súp, rau trộn, dưa chua, hoa quả. Loại thức ăn thực dưỡng chưa qua tinh chế thường tươi, có độ giòn và cung cấp đầy đủ vitamin. Những người áp dụng chế độ ăn thực dưỡng có thể thêm vào thực đơn của mình những món như vậy.

Thức ăn chưa qua tinh chế thì có tác dụng không những cho vùng hông mà còn cho cả cơ thể. Chúng giúp làm giảm nhiệt của cơ thể trong những ngày nóng và nắng. Hơn nữa, đối với những người có tiền sử bệnh máu nhiễm mỡ, việc dùng thức ăn chưa qua tinh chế có thể giúp làm giảm lượng mỡ và nhiệt thừa trong cơ thể. Đối với những người béo phì mà bị huyết áp cao dẫn tới việc thừa nhiệt, việc ăn thêm những loại thức ăn này thực sự rất tốt cho cơ thể. Còn với những người quá gầy do căng thẳng, sợ hãi, quá tích cực, ăn kiêng không đúng cách hay là do hấp thụ nhiều các loại thức ăn nấu quá chín và mặn thì thức ăn chưa qua tinh chế quả là một bài thuốc tuyệt vời. Mặt khác, người mà sức khỏe yếu, thiếu máu, cần phải bồi dưỡng thì nên giảm các loại thức ăn phi thực dưỡng cho đến khi cơ thể đã đầy đủ các dưỡng chất cần thiết.

Tôi cũng khuyên các bạn rằng loại trừ trường hợp những người có cơ quan tiêu hóa quá yếu, mắc bệnh da liễu, vừa phẫu thuật hay có tiền sử dị ứng với đồ ăn chay, thì chúng ta nên xếp những loại thức ăn sống chưa qua tinh chế như đã nói ở trên vào thực đơn của mình. Phần lớn mọi người đều có thể chỉ ra ngay lợi ích của loại thức ăn này- họ cảm thấy khỏe hơn, thoải mái hơn, tươi trẻ hơn, sung sức hơn. Hãy tin vào cảm nhận của cơ thể chứ đừng nên thiển cận chỉ dựa vào sách vở lý thuyết nên hay không nên ăn thứ gì, ăn sao cho đúng cách. Bạn nên tìm hiểu nhiều cách chế biến thức ăn để rồi tìm ra cho mình cách nào là hợp lý và phù hợp nhất đối với bản thân dưới tác động của xã hội, hoàn cảnh địa lý và điều kiện khí hậu.

Có rất nhiều cách chế biến thức ăn thực dưỡng sao cho chúng hấp dẫn hơn, dễ tiêu hóa hơn. Những người bạn của tôi rất thích các loại nước ép trái cây giàu vitamin. Thực tế, chế biến các loại đồ ăn thực dưỡng khá phức tạp và tốn kém. Đối với bản thân tôi, khi quyết định áp dụng chế độ ăn thực dưỡng, tôi thích những món ăn đơn giản, không đòi hỏi các loại dụng cụ đặc biệt mới chế biến được. Tôi đã phát hiện ra rằng không như các loại máy nghiền, xay hay ép ồn ào và phiền toái, cách chế biến thức ăn thủ công có thể giúp bảo quản đầy đủ các vitamin cũng như các dưỡng chất tự nhiên có trong loại thức ăn đó. Nói như vậy không có nghĩa là tôi phủ nhận tác dụng của các loại máy móc. Ví dụ một vài loại nước sốt hay súp cần phải thật nhuyễn và mịn nên vẫn phải cần đến máy sinh tố khi cần thiết. Tôi thích những loại máy móc hiện đại dành cho việc bếp núc. Vậy nên bạn bè có thể dễ dàng chọn quà sinh nhật cho tôi. Tuy nhiên, phần lớn các món ăn thực dưỡng hàng ngày tôi thích chế biến bằng tay vì nó cũng khá là đơn giản. Tôi tin rằng các món ăn đó rất đơn giản, không cần nhiều dụng cụ chế biến hay kĩ thuật nấu ăn phức tạp, chỉ cần chút muối, chút dấm với dầu ô liu ... chúng ta sẽ được những món ăn ngon lành đầy dinh dưỡng.

“Tại sao lại phiền toái”, một sinh viên đã hỏi tôi như vậy trong một lần tôi hướng dẫn cách làm salad muối. Hay “Tại sao lại phải chuẩn bị và trộn chúng lại với nhau trong khi chúng ta có thể ăn sống”. Những câu hỏi phát sinh như thế này là điều hợp lý. Như chúng ta đã biết rằng salad muối dễ tiêu hóa hơn. Hơn nữa, nó còn giúp tăng công dụng của các loại vitamin và các chất dinh dưỡng vì quá trình trộn dần dần phá vỡ các chất xơ cứng làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa. Hơn nữa, những vị thơm ngon nhất đều chứa trong nước ép rau quả. Quá trình muối đã làm cho nước từ rau quả tiết ra. Do đó, khi thưởng thức món salad muối, chúng ta sẽ thấy rất ngon và tươi mát

“Tôi có thể ăn các loại salad đóng gói sẵn được không” là một câu hỏi khá phổ biến. Các loại thức ăn như thế này được bán trong các khu chợ của người Châu Á và chúng cũng cũng khá tốt nếu bạn thích. Riêng cá nhân mình, tôi đã từ bỏ các loại thức ăn đó từ nhiều năm trước vì tôi không thích để đồ ăn trong các túi nilon. Hiện tại, tôi sử dụng một cái bình gốm nhỏ. Bạn có thể mua nó ở các cửa hàng bán dụng cụ nấu ăn hay mua trên mạng Internet.Tất cả dụng dụ bạn cần là một cái bình, một cái đĩa phẳng để vừa vào trong lòng bình gốm và để úp lên trên hỗn hợp rau quả khi đang muối và một vật nặng để tạo sức ép giúp hỗn hợp ngập chìm trong nước. Vật nặng thì tôi thường dùng lọ đựng đậu lớn, đá hay là một cục gạch sạch.

Một câu hỏi cũng khá phổ biến khác là: “Tôi có nên rửa salad muối trước khi ăn?”. Tôi khuyến khích các bạn nên rửa chỉ trong trường hợp nó quá mặn. Bởi vì việc rửa làm cho salad mất mùi vị và dinh dưỡng. Nếu bạn muốn salad không bị mặn, đơn giản bạn chỉ cần giảm lượng muối trước khi chế biến. Như vậy, bạn sẽ không cần rửa qua trước khi ăn nữa.

Bạn nên bảo quản salad muối trong tủ lạnh hay những chỗ thoáng mát. Vị của salad sẽ ngon hơn sau 1 đến 2 ngày. Nên nhớ trước khi cất vào nơi bảo quản, bạn phải bỏ vật nặng ra nếu không nó sẽ giống như là dưa góp hơn là salad muối.



____
sưu tầm

Nam Mô A Di Đà Phật.

Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2011

TẠI SAO ĂN THỊT ĐỘNG VẬT CÓ NGUY CƠ BỊ BỆNH?

Theo các nhà khoa học, có sáu yếu tố mà những người ăn thịt có nguy cơ mắc bệnh, phần lớn là bệnh tim mạch và ung thư:
(1) Trong thịt động vật và những phó sản liên hệ như trứng, bơ, pho mát và sữa có chứa nhiều chất cholesterol và chất béo bão hòa 
(2) Thịt động vật không có chất xơ và carbon hydrate 
(3) Tiêu thụ thịt động vật và các sản phẩm bơ sữa làm yếu hệ tiêu hóa dẫn đến nhiều dạng rối loạn đường ruột 
(4) Chất độc của các loại thức ăn do công nghiệp chế biến và phương pháp nuôi súc vật theo kiểu hiện đại mang lại 
(5) Nhiễm trùng trong thịt động vật, và 
(6) Chất đạm protein thịt động vật. 


Cụ thể: 
(1) Cholesterol và chất béo bão hòa: Cholesterol chỉ có trong thịt, trong lòng đỏ trứng, bơ, pho mát, sữa và tôm cá, mà không có trong các thực phẩm có nguồn gốc thực vật. 
Do cholesterol không thể hòa tan trực tiếp vào máu, nên tự nó tìm cách gắn vào các protein, vốn có thể tan được, để đi vào máu. Tuy nhiên, lượng cholesterol cao, nhất là loại cholesterol xấu LDL luôn luôn có khuynh hướng tích tụ chung quanh các thành động mạch, gây ra hiện tượng co thắt động mạch và làm hạn chế sự lưu thông của dòng máu. 
Ngoài vấn đề sinh ra các bệnh liên hệ đến tim mạch, nhiều cholesterol và chất béo bão hòa còn có khuynh hướng thúc đẩy một số tế bào ung thư nào đó phát sinh, nhất là ung thư vú. Sự chuyển hóa thành năng lượng của chúng có tác dụng đối với kích thích tố nữ, mà kích thích tố nữ lại có tác dụng thúc đẩy sinh ra ung thư vú, ung thư tử cung và ung thư buồng trứng. 
Chất béo, nhất là chất béo bão hòa dư thừa có thể bị tích tụ ở gan, đây là nguyên nhân chính gây ra ung thư gan. Tưởng cũng cần nói thêm, cơ thể chúng ta tự sản xuất đủ lượng cholesterol cần thiết hàng ngày mà không cần tiêu thụ thêm các thực phẩm thịt cá từ bên ngoài đem vào. 
Bằng Chứng Y Khoa:
- Một công trình nghiên cứu lớn nhất thế giới được thực hiện từ năm 1949 và vẫn con đang tiếp diễn đến ngày nay với 5.000 người nam và người nữ tham dự ở Framingham, Massachusetts. Trong số những kết quả được công bố là những người đàn ông 50 tuổi có lượng cholesterol cao hơn 295 mg/dl có mức độ nguy cơ lâm bệnh nhồi máu cơ tim nhiều hơn 9 lần những người có lượng cholesterol 200 mg/dl. Ngoài ra họ không tìm thấy một người nào có lượng cholesterol dưới 150 mg/dl bị nhồi máu cơ tim. 
- Trong nghiên cứu thí nghiệm với 557 ca bệnh và 826 ca thí nghiệm năm 1981 các nhà nghiên cứu đã cho biết nguy cơ liên quan đến ung thư vú tăng lên cùng với việc tiêu thụ thịt bò và các loại thịt khác. 
- Trong một nghiên cứu lớn khác tại Pháp năm 1986 với hàng ngàn phụ nữ cho thấy nguy cơ gia tăng ung thư vú là do hấp thụ những sản phẩm từ sữa vào cơ thể. Phụ nữ ăn pho mát thường xuyên có nguy cơ mắc bệnh cao hơn 50% so với những người không ăn pho mát. Những phụ nữ uống sữa bò thường xuyên cũng có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn 80%. 
(2)Không Có Chất Xơ Trong Thịt Động Vật: Chất xơ là một chất chỉ có trong thực vật, không có trong thịt động vật. Nó có nhiệm vụ giúp thực phẩm di chuyển dễ dàng trong hệ tiêu hóa và làm giảm lượng cholesterol dư thừa trong máu. Ăn ít chất xơ thường gây nên táo bón, bệnh về sự tiêu hóa và các rối loạn khác. Chất xơ được phân ra làm hai loại, loại hòa tan được (solube fiber) và loại không hòa tan được (insolube fiber). Loại hòa tan có nhiều trong cám gạo (rice bran) và cám yến mạch (oat bran), có khả năng làm giảm cholesterol; còn loại không hòa tan có nhiều trong cám lúa mì (wheat bran), không giúp mấy trong việc giảm cholesterol, nhưng giúp cho nhuận trường. 
Bằng Chứng Y Khoa
- Trong các phòng thí nghiệm, các nhà khoa học của Tổ Chức Y Tế Hoa Kỳ, năm 1991 đã khám phá rằng chế độ ăn uống giầu chất xơ sẽ làm giảm nguy cơ gây ung thư ở chuột khoảng 50%. 
- Hai nhà nghiên cứu khoa học là Drs. E. Graft và J.W. Eaton, cho biết rằng nhiều thực phẩm giầu chất xơ lại có nhiều chất phytate, như đậu nành chẳng hạn. Họ cho rằng những loại thực phẩm này bảo vệ chúng ta khỏi bị bệnh ung thư kết tràng (colon cancer) không những vì chất xơ mà còn vì chất phytate 
- Các nhà khoa học đã báo cáo năm 1980 là sự gia tăng cả hai loại ung thư liên quan đến đường ruột, đều do sự gia tăng calories, cholesterol, chất béo và chất đạm thịt. Nguy cơ cao nhất vẫn là chất béo bão hòa. 
- Năm 1974 những nhà nghiên cứu của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ cho biết có sự liên hệ ung thư đường ruột với mức tiêu thụ thịt bò cao. Bằng chứng cho biết rằng thịt, nhất là thịt bò, là món gây nên các khối u ác tính trong ruột già. 
- Cuộc nghiên cứu năm 1975 cho biết những con thú trong phòng thí nghiệm được nuôi tới 35% mỡ bò thì có khối u ác tính đường ruột tăng lên đáng kể. 
(3) Tiêu thụ thịt động vật và các sản phẩm bơ sữa làm yếu hệ tiêu hóa dẫn đến nhiều dạng rối loạn đường ruột. Rau đậu và ngũ cốc không bị phân hủy trước khi chúng ta ăn, ngược lại chất đạm thịt động vật bị hư ngay khi con vật vừa bị giết. Để làm ngưng sự phân hủy, người ta đã phải ướp lạnh hay dùng hóa chất, nhưng sự hư rữa sẽ trở lại ngay, khi chúng ta đưa chúng vào bao tử và cho đến khi vào đến đại tràng thì sự thối rưã trở nên nặng và tạo ra những vi sinh độc hại. Đó là chưa kể đến việc tiêu hóa chúng trong hệ thống tiêu hóa con người rất chậm (chậm hơn rau, đậu, mễ cốc và trái cây tới bốn lần), nên rất dễ gây ra tình trạng độc hại, dễ ung thư đường ruột. 
(4) Chất độc của các loại thức ăn do công nghiệp chế biến và phương pháp nuôi súc vật theo kiểu hiện đại mang lại. Một lý do khác nữa là thịt động vật, nhất là thịt động vật được nuôi tại Hoa kỳ và các nước kỹ nghệ tiền tiến, được xử lý với nhiều chất hóa học để làm chúng mau lớn, béo nhanh, tránh bệnh tật. Một số chất trong những chất hóa học này không thể nào tiêu hóa được hết, chúng còn tồn đọng trong thịt và được phát hiện là những hóa chất gây ung thư. Khi phát hiện một con vật có một khối u trong một bộ phận nào đó của cơ thể, họ chỉ cắt bỏ phần đó mà thôi, phần còn lại có thể có tế bào nhiễm ung thư vẫn được tiếp tục sản xuất dưới các hình thức khác như thịt bầm, thịt lát hay hot dogs. Những phần cắt bỏ, tiếc thay, được tập trung lại với những chất phế thải khác của lò sát sinh và hàng tỷ pound phân gà lấy từ các xưởng chăn nuôi gà trộn lại thành thức ăn mới cho heo, bò và gà, bất kể những thức ăn này có nhiễm các mầm mống gây ung thư hay bệnh truyền nhiễm. 
(5) Nhiễm trùng trong thịt động vật: Trung tâm kiểm soát bệnh dịch CDC ở Atlanta ước tính mỗi năm ở Hoa Kỳ có khoảng 80 triệu trường hợp bị mắc bệnh do thực phẩm gây ra, trong số đó có 9000 người chết. Vi khuẩn salmonella gây ra 4 triệu người ngộ độc trong đó có gần 1000 người chết. Vi khuẩn campylobacter, loại vi khuẩn gây ra bệnh viêm cấp tính đường tiêu hóa, gây ra 6 triệu người bị bệnh mỗi năm và có khoảng 400 người chết. Vi khuẩn E-coli, một loại vi khuẩn tìm thấy trong trong thịt bò nhiễm độc của cơ sở sản xuất thịt Hudson Foods và Sara Lee gây ra 250 người chết và làm cho 20 ngàn người lâm bệnh mỗi năm. Trong năm 1994 USDA đã thăm dò và tìm thấy 15% thịt bò có mang vi khuẩn E-coli, 30% thịt gà có vi khuẩn salmonella, và 60 đến 80% thịt gà có vi khuẩn campylobacter. 
Trong các thực phẩm đồ biển cũng có một loại vi khuẩn mang tên Vibrio vulnificus, đã gây ít nhất cho 87 người chết từ năm 1989. Người ta cũng thấy có cả siêu vi khuẩn hepatitis A trong trai sò (shellfish). Chính bác sĩ McDougall nói rằng: "Tôi không khuyên mọi người ăn thịt gà và cá để thay cho thịt bò và heo, bởi vì như vậy không có thay đổi gì hết. Dinh dưỡng như vậy vẫn nguy hiểm vì vẫn nhiều chất béo, nhiều chất cholesterol, không có chất xơ và vẫn có chất độc ô nhiễm". 
(6) Chất đạm thịt động vật (animal protein): Chất đạm thịt động vật có tác dụng nâng cao lượng cholesterol trong máu khi so sánh với chất đạm có nguồn gốc từ ngũ cốc. Một nghiên cứu cho biết là chất đạm thịt bò gia tăng lượng cholesterol trong máu tới 19 phần trăm và áp huyết tâm thu cũng gia tăng theo. 
Nói tóm lại, nguyên nhân gây bệnh tật chính là do ăn thịt động vật, các nội tạng thú vật, cá, tôm, cua, sò ốc, hến và trứng, bơ, sữa, và cũng vì thế, bốn vị bác sĩ nổi tiếng trong giới y khoa thế giới mà chúng tôi đã đề cập đến trong chương trước, đã khuyến cáo chúng ta nên phòng bệnh hơn là chữa bệnh bằng cách từ bỏ ăn thịt cá và thay thế vào đó là ăn rau, đậu, ngũ cốc nguyên chất và trái cây, mà ngày nay người Hoa Kỳ thường gọi là "healthy foods". Khoa học đã chứng minh dinh dưỡng bằng cá thịt không tốt, mang lại nhiều căn bệnh hiểm nghèo như tim mạch, ung thư, tiểu đường, vân vân. 

(trích trong cuốn: Dinh dưỡng ngăn ngừa bệnh tật - Tâm Diệu) 
http://phattuhatinh.com/default.aspx?module=news&ID=257&CatID=73


Nam Mô A Di Đà Phật.

Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2011

MÙA HÈ NÊN ĂN UỐNG NHƯ THẾ NÀO ?

Mùa hạ có 3 tháng, tính từ tháng 4 - 6 âm lịch, bắt đầu từ ngày lập hạ cho đến ngày lập thu, bao gồm 6 tiết khí: lập hạ, tiểu mãn, mang chủng, hạ chí, tiểu thử và đại thử. Đây là mùa dương khí vượng nhất trong năm, thời tiết nóng bức và ẩm thấp. Quá trình trao đổi chất trong cơ thể con người diễn ra mạnh mẽ, dương khí phát ra ngoài, âm khí tiềm phục ở trong. Các lỗ chân lông giãn rộng, mồ hôi tiết ra nhiều để điều hòa thân nhiệt nhưng cũng vì thế mà tà khí dễ xâm nhập vào trong. Hệ thống mao mạch ngoại vi cũng giãn ra, khí huyết lưu thông nhanh và mạnh hơn. Công năng của tỳ vị có xu hướng suy giảm vì nóng bức uống nhiều làm cho dịch vị bị pha loãng, quá trình tiêu hóa và hấp thu thức ăn dễ bị rối loạn.

Sách Dưỡng sinh thư đã viết: “Hạ chí hậu thu phân tiền, kỵ thực phì nhi bính, hoắc du tô chi thuộc, thử đẳng vật dữ tửu tương qua quả thực vi tương phỏng, hạ nguyệt đa tật dĩ thử” (mùa hạ nên kiêng ăn đồ béo ngậy, bơ sữa và rượu, những thứ này dễ gây nhiều bệnh tật).

Tiết trời nóng ẩm cũng là điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật phát triển mạnh (Đông y gọi là tà khí) làm cho thực phẩm dễ ôi thiu, biến chất, trong khi đó vì uống nhiều nước dịch dạ dày bị pha loãng nên khả năng sát khuẩn giảm thấp càng làm cho nguy cơ ngộ độc thức ăn tăng cao. Bởi vậy, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trở nên hết sức cấp bách. Để dự phòng “bệnh tòng nhập khẩu” cần chú ý giữ gìn vệ sinh ăn uống, không dùng thực phẩm ôi thiu, không uống nước lã, nước nhiễm bẩn, rau quả tươi phải được rửa thật sạch...

Đông y cho rằng: Thử (nắng nóng) là chủ khí mùa hạ, là dương tà, tính thăng tán dễ làm hao tổn khí và tân dịch. Thử tà xâm nhập vào cơ thể gây ra nhiều mồ hôi làm tổn thương tân dịch, nếu không kịp thời bù đắp thậm chí có thể làm hao tổn nguyên khí, biểu hiện ra bên ngoài bằng các triệu chứng như mệt lả, khó thở, ngại nói, có khi đột nhiên ngã lăn bất tỉnh (say nắng, say nóng). Hơn nữa, thử thường kiêm với thấp (độ ẩm), thấp là âm tà dễ làm tổn thương dương khí. Đặc điểm của thấp tà là nặng trệ, kết dính, dễ gây thương tổn tỳ dương. Biểu hiện trên lâm sàng bằng các triệu chứng như chân tay tê mỏi, mình mẩy nặng nề, đầu nặng như đeo đá, không muốn ăn, hay đầy bụng, dễ đi lỏng, thậm chí có thể phù nhẹ hai chân...

Bởi vậy, trong mùa hạ, Đông y khuyên nên ăn uống thanh đạm, han chế đồ bổ béo xào rán hoặc sống lạnh để giảm gánh nặng cho tỳ vị. Ngoài ra nên chú trọng dùng nhiều đồ ăn thức uống có tác dụng thanh nhiệt giải thử, lợi niệu trừ thấp như dưa hấu, mướp đắng, dưa chuột, bí đao, đậu xanh, đậu đen, cháo ngũ đậu, cháo ý dĩ, cháo đậu xanh, cháo biển đậu, cháo lá sen, trà nhân trần, trà hoa cúc, trà nụ hoặc lá vối, trà actiso, trà khổ qua... Những ngày quá nóng bức có thể dùng một chút nước lạnh hoặc nước đá để giúp cơ thể giải nhiệt nhưng không được dùng nhiều để tránh làm thương tổn tỳ vị, tạo điều kiện cho thấp tà gây bệnh bên trong.

Khi mồ hôi ra nhiều phải chú ý bổ sung đủ lượng nước đã mất bằng đường ăn uống. Cổ nhân có câu: “Hãn vi tâm dịch” (mồ hôi là dịch của tâm), bởi thế khi mất mồ hôi âm dịch trong cơ thể nói chung và âm dịch trong tạng tâm nói riêng (gọi là tâm âm) cần chú ý trọng dụng những đồ ăn thức uống có công dụng thanh nhiệt dưỡng âm như thạch đen, chè đậu đen, trà mạch môn, nước ép quả lê, nước ép ngó sen, nước mơ, nước mận, nước dâu, trà bát bảo...

Ngoài việc thanh nhiệt giải thử và dưỡng âm, ăn uống trong mùa hạ còn phải hết sức chú ý tránh làm thương tổn tỳ vị. Theo Đông y, các thực phẩm có công dụng phương hương tỉnh tỳ, kiện tỳ hóa thấp, giải thử đều trực tiếp hoặc gián tiếp giữ gìn và nâng cao năng lực hoạt động của tỳ vị, ví như các loại cháo chế từ đậu xanh, đậu côve, bạch biển đậu, ý dĩ, hạt sen, củ mài...; các loại trà hoắc hương, trà nụ vối, trà hương nhu, trà lá sen... Nên chú ý dùng thêm các đồ ăn thức uống có vị chua ngọt, cay thơm để nhằm mục đích khai vị, kích thích cảm giác thèm ăn như các loại canh chua chế từ quả sấu, me, khế, quả dọc, tai chua, quả chay, chua me đất hoa vàng... và các loại nước cam, nước chanh, nước mơ, nước sấu...

Tuy nhiên, cần chú ý không nên dùng quá nhiều đường tinh luyện khi pha chế các loại nước giải khát. Để bảo vệ nguyên khí, cổ nhân khuyên “bảy mươi hai ngày mùa hạ nên bớt vị đắng, tăng vị cay để dưỡng phế khí (Thiên kim yếu phương)”. Bởi vì căn cứ vào quy luật ngũ hành, tâm thuộc hỏa, phế thuộc kim, hoả khắc kim, tâm hỏa quá thịnh sẽ khắc phạt phế kim, vị đắng vào tâm, vị cay vào phế, nếu ăn thêm một ít vị cay thì phế khí sẽ được trợ dưỡng, nếu ăn bớt vị đắng thì tâm hỏa sẽ không quá vượng thịnh mà hại phế khí.


Cuối cùng, trong vấn đề dưỡng sinh ăn uống mùa hạ, Đông y còn có một quan điểm hết sức độc đáo, đó là “xuân hạ dưỡng dương”. Mùa hạ nóng nực tuy phải dùng nhiều đồ ăn thức uống có tác dụng thanh nhiệt giải thử nhưng vẫn cần lấy ôn ấm làm chính để trợ giúp khí dương. Bởi vì, các nhà dưỡng sinh Đông y cho rằng mùa hạ tuy dương khí vượng thịnh bên ngoài nhưng khí âm lại tiềm ẩn bên trong cơ thể, vậy nên “trời tuy nóng chớ tham mát, dưa tuy ngon chớ ăn nhiều”. Nếu không biết giữ gìn dương khí trong mùa hạ thì mùa đông sẽ mắc nhiều bệnh tật, phải biết thuận ứng thiên thời để bồi bổ dương khí, trừ khử âm hàn có như vậy mới gọi là phòng bệnh triệt để. Bởi vậy, trong mùa hạ, việc chọn dùng một số đồ ăn uống có tính ôn bổ cũng là rất cần thiết, đặc biệt đối với những người có bệnh mạn tính và thể chất vốn suy nhược do dương khí kém.

(Theo Sức khỏe và đời sống)

Nam Mô A Di Đà Phật.

ĂN NGŨ CỐC LỨT GIẢM NGUY CƠ CÁC BỆNH TIM MẠCH




NEW YORK (Reuters) - Người Mỹ nên ăn nhiều ngũ cốc nguyên vẹn (whole grains), còn nguyên cám và mầm, để giúp họ giảm những nguy cơ bị nghẽn động mạch, lên cơn đau tim và cơn đột quị, theo lời các nhà nghiên cứu.

Trong một cuộc khảo sát về 7 cuộc nghiên cứu sâu rộng, các chuyên gia thấy rằng sự tiêu thụ nhiều ngũ cốc nguyên vẹn giúp làm giảm những nguy của bệnh tim mạch. Tính trung bình, những người lớn mỗi ngày ăn 2.5 phần (serving) thức ăn từ ngũ cốc nguyên vẹn thì giảm được khoảng 25% sự phát sinh bệnh tim mạch so với những người hiếm khi ăn chúng.

Các chuyên gia tin rằng ngũ cốc nguyên vẹn đem lại phúc lợi cho tim bằng vài cách. Chất xơ và những chất bổ dưỡng khác trong ngũ cốc nguyên vẹn có tác dụng hạ thấp chất cholesterol, làm giảm mức của chất đường trong máu, đồng thời cải thiện chức năng của những huyết quản và giảm chứng viêm trong hệ tuần hoàn.

Nhưng cho tới nay những cuộc khảo sát cho thấy chỉ có một số ít người Mỹ nghe theo lời khuyên hãy ăn 3 phần ngũ cốc nguyên vẹn mỗi ngày, theo lời các tác giả của cuộc nghiên cứu mới. Hơn 40 phần trăm người thành niên ở Hoa Kỳ nói rằng họ không ăn những thứ ngũ cốc nguyên vẹn.

“Nhiều người trong giới tiêu thụ và những chuyên gia y tế không nhận thức về những lợi  ích của ngũ cốc nguyên vẹn đối với sức khỏe,” người cầm đầu cuộc nghiên cứu, Bác Sĩ Philip B. Mellen, thuộc Ðại Học Wake Forest University ở Winston-Salem, North Carolina, nói trong phúc trình.
Một số người cũng thiếu hiểu biết về những gì chứa đựng trong ngũ cốc nguyên vẹn. Chúng gồm có ba thành phần chính: cám (bran) và mầm (germ), là hai thứ giàu chất xơ và những chất bổ dưỡng, và nội nhũ (endosperm) có chứa tinh bột và chất đạm (protein). Ngũ cốc chế biến, như bánh mì trắng, các thứ bánh ngọt, và những thực phẩm ăn vặt (snack foods) được làm từ những thứ bột trắng đã mất cám và mầm.

Trái lại, những ngũ cốc nguyên vẹn - như lúa mạch, lúa mì nguyên vẹn, gạo lứt - còn giữ nguyên cám và mầm rất giầu chất bổ dưỡng.

Căn cứ vào những cuộc khảo sát mới nhất, Bác Sĩ Mellen và các đồng nghiệp cho rằng giới chuyên gia y tế cần nên “tăng gấp đôi” những nỗ lực của họ để thúc đẩy người ta hãy ăn ngũ cốc nguyên vẹn nhiều hơn.

Họ đã báo cáo những kết quả nghiên cứu trên bản trực tuyến của đặc san Nutrition, Metabolism... Cardiovascular Diseases (dinh dưỡng, biến dưỡng và những bệnh tim mạch).

Ðể khảo sát, Bác Sĩ Mellen và các đồng nghiệp đã thu thập những số liệu từ 7 cuộc nghiên cứu sâu rộng liên quan tới hơn 285,000 người đàn ông và đàn bà đã được theo dõi từ 6 tới 15 năm. Tính một cách tổng quát, những người nào ăn nhiều ngũ cốc nguyên vẹn nhất thì giảm được những nguy cơ lên cơn đau tim hoặc đột quỵ, hoặc chết vì những nguyên nhân liên quan tới tim mạch.


Ðiều này đúng sau khi đã xét tới những yếu tố sức khỏe khác, như chế độ dinh dưỡng tổng quát, tập thể dục, sức nặng của thân thể, ghiền hút thuốc lá.

VAI TRÒ CỦA CHẤT XƠ ĐỐI VỚI SỨC KHỎE

Vì vai trò quan trọng đối với sức khỏe con người, chất xơ thực phẩm ngày càng được chú ý nghiên cứu, từ việc dùng chất xơ làm thức ăn chính, thức ăn bổ sung đến việc đưa ra những chế độ ăn giàu chất xơ. Nguồn cung cấp chất xơ duy nhất cho cơ thể là từ các loại rau quả, đậu, hạt, ngũ cốc.


Nguồn cung cấp chất xơ

Chất xơ là chất bã thức ăn còn lại sau khi được tiêu hóa, gồm các chất tạo thành vách tế bào (cellulose, hemicellulose, pectin và lignin) và các chất dự trữ, bài tiết bên trong tế bào (gôm, nhầy). Hiện nay, các chất sáp, cutin, glycoprotein (chất đạm cấu tạo vách tế bào không tiêu hóa được) cũng được xếp vào loại chất xơ thực phẩm.
Chất xơ cung cấp cho cơ thể con người chủ yếu là từ trái cây, rau ăn lá, củ rễ, rau đậu, các loại đậu hạt, ngũ cốc còn lớp vỏ cám, cám gạo. Chất nhầy (là loại chất xơ tan được) có trong rau mồng tơi, rau đay, mướp, thanh long, hoàng tinh, xương sâm, xương sáo (thạch đen), hột é (húng quế), hột é trắng (trà tiên), vỏ hột đười ươi, mủ trôm, rau câu, lá găng... Mỗi loại rau quả chứa loại chất xơ và lượng chất xơ khác nhau. Rau, củ, quả nào càng nhiều bã và càng già thì chứa càng nhiều chất xơ.

Tác dụng của chất xơ

Trước kia, người ta xem chất xơ là một chất trơ không có giá trị dinh dưỡng vì không tiêu hóa được. Nhưng ngày nay, chất xơ được xem có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Tác dụng đáng chú ý nhất của chất xơ là giúp cải thiện chức năng ruột già. Nhờ khả năng ngậm nước mạnh, chất xơ thực phẩm được xem như thuốc nhuận tràng loại tạo khối phân, giúp bình thường hóa tình trạng phân và số lần đi tiêu. Như vậy, tác dụng chính của chất xơ thực phẩm đối với ruột già là chống táo bón và cung cấp năng lượng hoạt động cho tế bào ruột già. Ăn thiếu chất xơ có thể gây rối loạn ruột già. Dùng các loại rau quả có nhiều xơ là một trong những cách tốt nhất để phòng ngừa và điều trị táo bón chức năng.

Chất xơ giúp phòng ngừa tình trạng khó đi tiêu ở bệnh nhân tim mạch, bệnh hậu môn (trĩ, mạch lươn), phụ nữ mang thai... Dùng lâu dài làm giảm được triệu chứng của hội chứng đại tràng kích thích, bệnh túi thừa đại tràng và viêm đại tràng mạn tính; Giảm triệu chứng trong tiêu chảy cấp và giúp điều chỉnh rối loạn hoạt động ruột do mổ ruột già hay hồi tràng.

Các nhà dinh dưỡng khuyên chúng ta nên ăn rau, trái cây hơn là uống nước ép của chúng; Ăn ngũ cốc còn lớp cám hơn là ngũ cốc đã loại bỏ cám. Trung bình, mỗi ngày nên ăn khoảng 2 chén rau đầy (trên 400g). Tác dụng chống táo bón thường thấy rõ sau 24 giờ và đạt mức tối ưu sau 1-3 ngày dùng liên tục. Đây là điều cần chú ý vì hầu hết bệnh nhân táo bón thường nôn nóng, muốn dùng món ăn hay thứ thuốc nào có tác dụng nhanh, mà nhanh - thường không hẳn là tốt, lại dễ gây lệ thuộc.

Tác dụng quan trọng thứ hai của chất xơ thực phẩm là góp phần làm giảm cholesterol máu. Điều cần lưu ý là chất xơ trong thức ăn có làm giảm cholesterol máu hay không còn tùy thuộc vào loại chất xơ, lượng chất xơ ăn vào, mức độ tăng cholesterol máu... Thức ăn có chứa chất xơ tan như cám yến mạch, pectin, lúa mạch, đậu hạt, rau đậu, trái cây và rau có thể làm giảm được 5-10% lượng cholesterol máu, có khi tới 25%, nhưng nếu tách riêng chất xơ ra để dùng thì chỉ làm giảm được cholesterol dưới 5%.

Tác dụng quan trọng thứ ba của chất xơ thực phẩm là hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh một số chất xơ tan làm tinh bột lưu lại lâu trong ruột, chậm hấp thu glucose, do đó làm lượng đường trong máu không tăng cao đột ngột. Tinh bột chậm tiêu hóa còn tạo cảm giác no, góp phần làm dịu đáp ứng đường huyết. Thức ăn xay thô có tác dụng tốt hơn xay mịn và thức ăn giàu chất xơ tốt hơn là xơ chiết tinh.

Chất xơ còn tác dụng giúp điều chỉnh cân nặng. Chất xơ có tính nhớt như gôm, pectin, gel, chất nhầy sẽ tạo cảm giác no, làm giảm lượng ăn, cản trở khả năng tiêu hóa và hấp thu các chất dinh dưỡng.

Dùng nhiều chất xơ có tác dụng xấu gì không?

Dùng nhiều thức ăn chứa chất xơ không gây nguy hiểm gì ngoài cảm giác tự nhiên là no đầy và đôi khi sôi bụng. Nhưng nếu dùng chất xơ dưới dạng bột khô tinh chế thì có thể gây tác dụng phụ. Người có cơ địa dị ứng hít phải bột khô của chất xơ chiết tinh có thể bị dị ứng.

Người vốn bị hẹp môn vị, dính ruột, bán tắc ruột nếu nuốt phải một lượng lớn chất xơ tan, nhất là bột khô có thể gây tắc thực quản hay tắc ruột do khả năng hút nước đóng cục. Có thể dễ dàng phòng tránh điều này bằng cách không dùng chất xơ dạng bột và uống nhiều nước sau khi dùng chất xơ.
Có nên uống thuốc sau bữa ăn có chất xơ?

Không nên uống thuốc sau bữa ăn có chất xơ vì chất xơ trong thức ăn có thể làm giảm hấp thu nhiều loại thuốc như paracetamol, các thuốc trợ tim loại digoxin hay glycoside trợ tim, calci, sắt, kẽm, đồng, salicylat (aspirin), nitrofurantoin, các dẫn chất của coumarin.

Tốt nhất, nên uống thuốc trước bữa ăn có chất xơ hơn 1 giờ, ngoại trừ thuốc chống viêm. Người không ăn được rau quả có thể bổ sung chất xơ bằng các loại thức ăn làm sẵn chế từ ngũ cốc còn lớp cám (bánh cám, bột cám rắc lên các món ăn khác, cháo gạo lứt, bánh mì đen), rau câu, xương sâm, xương xáo, hột é, mủ trôm v.v...

Cuối cùng, nên tăng từ từ lượng chất xơ ăn vào để giảm thiểu các tác dụng phụ có thể xảy ra. Người trưởng thành khỏe mạnh nên ăn ít béo, nhiều chất xơ từ nhiều nguồn (trái cây, rau, đậu hạt).

Các đối tượng sau đây cần chú ý ăn đủ chất xơ: trẻ em, phụ nữ mang thai và cho con bú, người cao tuổi và người mắc bệnh mạn tính. Chất xơ đặc biệt hữu ích cho người bệnh tiểu đường, vữa xơ động mạch, ung thư, viêm ruột thừa, loét tá tràng, bệnh tim thiếu máu, viêm túi mật, viêm loét đại tràng, bệnh Crohn, giãn tĩnh mạch, thuyên tắc tĩnh mạch sâu, thoát vị ruột. Tuy nhiên, nếu cơ thể đang trong tình trạng thiếu dinh dưỡng mà quá lạm dụng chất xơ, có thể sẽ gây tình trạng mất cân bằng khoáng chất và dinh dưỡng.

Thạc sĩ BS. LÊ HOÀNG SƠN
Trung tâm Dinh dưỡng TPHCM
(Theo Tuổi trẻ)
 

Blogger news

Blogroll

About